PTV: Giọt Sương
CHỚ QUÊN SỰ TIẾP KHÁCH
Vào một mùa đông cách đây 30 năm, sáng Chúa nhật ở Ashland, Kentuckey, tôi đã gặp được thiên sứ. Ít ra là tôi nghĩ đó là thiên sứ, vì tôi không dám chắc trăm phầm trăm. Nhưng cứ mỗi khi tôi nghĩ về việc đã xảy ra, tôi lại thấy có lẽ ông ấy đã được Chúa sai đến để thăm Hội thánh nhỏ bé của chúng tôi, và thử lòng chúng tôi.
Buổi sáng Chúa nhật bắt đầu bằng những cơn gió lạnh buốt, làm cho bất cứ ai cũng chẳng muốn rời khỏi chiếc giường ấm áp. Nhưng buổi nhóm ở nhà thờ đang “réo gọi”, và tôi còn phải dạy trường Chúa nhật nữa. Darlene, vợ tôi và tôi hối hả lo chuẩn bị cho hai đứa nhóc cùng đến nhà thờ.
Tôi là một mục sư lo mục vụ về giới trẻ cho Hội thánh trong vùng, và chắc các bạn cũng đoán ra, rằng mọi người cũng quan tâm đến khả năng làm việc của tôi xem có thể lo được mục vụ này không. Vào cái ngày đặc biệt đó, bài học tôi sẽ dạy về đức tin hành động giữa cộng đồng và bày tỏ ra cho người khác. Bài học được soạn để làm tiền đề cho bài giảng chính mà mục sư chủ tọa sẽ giảng vào buổi nhóm ngay sau đó.
Mặc dù tôi hơi bối rối, nhưng lớp học vẫn diễn ra tốt đẹp. Việc thảo luận rất sôi nổi, và tôi nghĩ chúng tôi đã giải quyết hết mọi khúc mắc của các bạn trẻ về vấn đề này. Đến giờ nhóm, chúng tôi cùng lên phòng nhóm chính trên lầu với toàn hội thánh. Mọi người rất vui vẻ vì được lên phòng nhóm chính, dù sao ở trên đó thì hệ thống sưởi cũng tốt hơn là tầng hầm – là nơi của tất cả các lớp học Kinh Thánh nhỏ.
Công việc thường lệ của tôi là hướng dẫn giờ thờ phượng. Tôi hướng dẫn cầu nguyện, rồi đến thông báo về những tin tức cần thiết trong vòng Hội thánh. Khi tôi đang đọc những hàng chữ nghệch ngoạc vội vàng của mình, bất ngờ tôi nhìn ra cửa chính. Một người đàn ông lớn tuổi vừa đẩy cửa bước vào, gương mặt tỏ vẻ như ngại ngùng vì có lỗi, ông từ từ tiến đến chỗ ghế trống ở giữa phòng nhóm.
Mọi người như quay cả lại, nhìn theo từng bước lê chân của ông lão. Ông mặc chiếc quần kaki dính đầy đất lem luốc, mang đôi giày bata trắng không vớ. Cái áo sơ mi ông mặc, nhìn có vẻ như trước đây nó từng là màu trắng… Để chống lại cái buốt giá mùa đông, ông ta mặc một chiếc ao len màu xám, có hai chỗ rách ở cùi chõ. Khuôn mặt già nua của ông bị nứt nẻ bởi gió lạnh, và dường như đã lâu ông không cạo râu. Ông lại còn xách một cái bao giấy trên tay nữa. Những người ngồi gần ông lão lạ mặt bịt mũi và quay mặt đi… Còn ông lão thì cứ nhìn quanh quanh vào những người chung quanh đang thờ phượng, họ ngồi đó trong những bộ cánh lịch lãm nhất.
Tôi xong phần thông báo, và người lo phần âm nhạc bước lên thay thế. Ông bước về phía bục, đặt thánh ca xuống và mở ra. Nhưng bỗng nhiên ông dừng lại. Ông lão nọ đang giơ tay lên.
“Vâng? Ông muốn nói gì ạ?”
“Tôi có thể nói một điều không ạ?”, ông lão nọ nói với giọng nhỏ và mệt mỏi.
Khẽ liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi người hát dẫn gật đầu.
Nắm lấy cái ghế tựa của hàng ghế phía trước, ông lão nhìn chung quanh hội thánh, gật đầu chào, rồi mỉm cười. “Ở bên ngoài rất lạnh, tôi rất biết ơn các ông bà đã cho phép tôi vào bên trong nhà thờ ấm áp này.”
“Chúng tôi rất vui có thể giúp ông như vậy,” người hát dẫn nói.
“Ông thấy đó, tôi là người đi ngang qua đây. Tôi không có nhà. Tôi may mắn gặp được ngôi nhà thờ xinh đẹp này, và vì tôi bị lạnh quá, tôi phải vào đây.”
Bây giờ thì người hát dẫn nhìn chằm chằm vào đồng hồ trên tay anh ta. Một vài tín đồ cũng nhúc nhích trên ghế.
Ông lão nọ vẫn tiếp tục, “Như tôi đã nói, tôi không có nhà. Và tôi đang rất đói. Vậy, tôi muốn hỏi thăm… không biết trong vòng quý ông bà có ai có thể giúp tôi một bữa ăn và cho tôi xin một ít tiền để sống cho đến khi tôi tìm được chỗ ở không ạ?”
Một sự im lặng đáng sợ.
Mọi người nhìn nhau và nhấp nhổm không yên. Một vài người quay lại nhìn ông lão nọ như thể ông ta vừa nói một câu chuyện hài dơ bẩn.
Mặt người hát dẫn ngây ra, nhưng những ngón tay anh thì vẫn không ngừng vo vo bìa của cuốn thánh ca để trên bục giảng.
Không một ai nói gì.
Cuối cùng, ông mục sư chủ tọa đứng lên, nhìn chung quanh hội thánh như dò ý. Nhưng không ai nói một lời nào, ông nhún vai, trở lại ghế ngồi, và từ đó thì cứ nhìn chằm chằm xuống đất.
Sự im lặng dài tưởng như mấy tiếng đồng hồ trôi qua, ông lão chầm chậm cuối đầu, bước ra khỏi chỗ ngồi và lê chân ra cửa.
Chỉ khi cách cửa đóng lại thì sự im lặng mới chấm dứt. Người ta thở dài nhẹ nhõm. Một vài người thì nói chuyện xì xầm với nhau.
Vợ tôi thúc mạnh cùi chõ vào tôi và nói, “Mình đâu thể để cho ông ta ra đi giữa trời lạnh như thế. Anh ngăn ông ta lại đi. Ông ấy có thể đến ở với gia đình mình mà.”
Tôi đứng bật dậy và chạy ra, cùng lúc một người bạn trong Hội thánh cũng chạy theo tôi. Chúng tôi tung cửa và chạy ra ngoài trời lạnh giá. Chỉ một phút sau đó. Nhưng chẳng hề thấy bóng dáng ông lão nọ ở đâu.
Chúng tôi đi vòng quanh nhà thờ, tìm khắp nơi. Nhưng chẳng thấy ông lão đâu nữa. Không biết ông ấy đã đi đâu?
Người bạn và tôi nhìn nhau. Có cái gì đó thật kì lạ. Chỉ vài giây thôi mà không biết ông ấy đi đâu. Cứ như ông ấy đã bốc hơi mất vậy.
Cảm giác thật tệ hại, chúng tôi trở vào lại nhà thờ. Bây giờ cả phòng nhóm rì rầm âm thanh của mọi người bàn về việc vừa xảy ra vài phút trước đó. “Đúng ta chúng ta nên làm gì đó?” hoặc là “Vâng, ông ta nên đi và kiếm một công việc làm chứ.” Một số người khác thì nói, “Nhưng chúng ta là con cái Chúa. Chúng ta phải làm gì đó cho ông ấy.” Một quý bà phát biểu, “Làm sao mà ông già ấy dám vào nơi tôn nghiêm này. Và chúng ta cũng chẳng hề biết ông ta.”
Cuối cùng, ông mục sư chủ tọa đứng lên và nhìn hội chúng. Những tiếng ồn lắng dần lại. Ông nói, “Hôm nay, một chuyện kinh khủng đã xảy ra. Chúng ta đã mất một cơ hội để chứng tỏ mình là con cái Chúa, và tôi sợ rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể nhận được nó nữa.” “Ý của mục sư là gì vậy?” Ai đó hỏi.
“Tôi muốn nói rằng, tôi tin chúng ta nhận được sự thăm viếng của thiên sứ của Chúa ngày hôm nay. Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi vẫn thường dạy tôi rằng Đức Chúa Trời sai những thiên sứ của Ngài đến chăm sóc chúng ta, hướng dẫn chúng ta… Nhưng Ngài cũng sai những thiên sứ đến để thử chúng ta để xem chúng ta thật sự là người như thế nào. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã được thử thách hôm nay. Và tôi nghĩ chúng ta đã thất bại.”
Rồi ông mục sư mở Kinh thánh và đọc, “Hãy hằng có tình yêu thương anh em. Chớ quên sự tiếp khách; khi có kẻ làm điều đó, đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết.” (He 13:1-2)
Nói xong, ông mục sư đóng Kinh thánh lại, ông ngồi xuống và gục đầu buồn bã.
Tôi vẫn hay nhớ về việc đã xảy ra khi tôi già đi và trưởng thành hơn trong chức vụ mình. Không biết ông lão ấy là ai? Tại sao ông lại đến nhà thờ của chúng tôi ngay chính cái ngày chúng tôi học về sự phục vụ người khác? Không biết ông ấy có phải thật là thiên sứ hay không? Không hiểu sao, tôi tin ông ấy là thiên sứ. Ít ra đối với tôi, ông ấy là thiên sứ.
Suy gẫm
Qua câu chuyện trên đây nhắc nhở cho chúng ta về tình yêu thương trong cuộc sống giữa con người và con người. Chúng ta không nên bỏ qua cơ hội làm việc lành cho một ai đó. Trong Kinh Thánh Chúa đã từng dạy: “Hãy hằng có tình yêu thương anh em. Chớ quên sự tiếp khách; khi có kẻ làm điều đó, đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết.” Chúng ta phải sống sao để khi gặp Chúa Ngài sẽ nói với chúng ta rằng: “Vì ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; ta khát, các ngươi đã cho ta uống; ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước ta; ta trần truồng, các ngươi mặc cho ta; ta đau, các ngươi thăm ta; ta bị tù, các ngươi viếng ta. Vua sẽ trả lời rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy” Ma thi ơ 25:35, 36, 40
(Hãy nhấn vào biểu tượng SHARE hoặc comment phía dưới nếu bạn thấy điều này ích lợi cho đời sống bạn hoặc những người xung quanh – CUỘC SỐNG MẾN YÊU-Nhiều bài học bổ ích cả về tâm linh và những nét đẹp trong văn hóa ứng xử).
Leave a Reply